Tiểu thuyết gia chạy bộ – Haruki Murakami

Tiểu thuyết gia chạy bộ | Haruki Murakami – Học cách đi xa
Một thời gian dài đã trôi qua kể từ khi tôi bắt đầu chạy hàng ngày. Cụ thể, là từ mùa thu năm 1982. Khi đó tôi ba mươi ba tuổi. Trước đó không lâu, tôi là chủ một câu lạc bộ nhạc jazz nhỏ ở Tokyo, gần ga Sendagaya. Chẳng bao lâu sau khi rời đại học — tôi quá bận rộn với những công việc phụ đến mức tôi thực sự còn thiếu vài tín chỉ nữa mới tốt nghiệp được và chính thức thì vẫn còn là một sinh viên — tôi đã mở một câu lạc bộ nhỏ gần lối vào phía nam của ga Kokubunji. Câu lạc bộ trụ ở đó khoảng ba năm; sau đó, khi tòa nhà đóng cửa để tu sửa, tôi đã chuyển đến một địa điểm mới, gần trung tâm Tokyo hơn. Địa điểm mới không lớn lắm — chúng tôi đặt ở đó một cây đàn piano lớn và chỉ còn vừa đủ không gian cho một nhóm nhạc ngũ tấu chen chúc. Ban ngày, nó là một quán cà phê; ban đêm, nó là một quán bar. Chúng tôi cũng có phục vụ đồ ăn ngon và vào cuối tuần, sẽ có các buổi biểu diễn trực tiếp đặc sắc. Kiểu câu lạc bộ này vẫn còn khá hiếm thấy ở Tokyo vào thời điểm đó, vậy nên chúng tôi đã có được một lượng khách hàng ổn định và kinh doanh dần thuận lợi. Hầu hết bạn bè của tôi đã dự đoán câu lạc bộ sẽ thất bại. Họ tin rằng một cơ sở kinh doanh hoạt động như thể để thỏa mãn một loại sở thích thì sẽ không thể thành công được và một người như tôi – tôi khá ngây thơ và đồ là, không có một chút năng khiếu nào về kinh doanh – sẽ không thể nào thúc đẩy nó phát triển được. Chà, những dự đoán của họ đã hoàn toàn sai rồi. Nói thật, tôi cũng không nghĩ rằng mình có năng khiếu kinh doanh. Tôi chỉ cho rằng vì tôi không được lựa chọn thất bại, nên tôi phải dốc hết mọi thứ có thể để làm thôi. Điểm mạnh của tôi luôn là ở chỗ tôi làm việc chăm chỉ và luôn có thể xử lý được nhiều công việc tay chân. Tôi giống một con ngựa thồ hơn một con ngựa đua. Tôi lớn lên trong một gia đình công chức nên không biết nhiều về kinh doanh, nhưng may mắn thay, gia đình vợ tôi điều hành một doanh nghiệp và trực giác bẩm sinh của cô ấy đã giúp tôi rất nhiều. Bản thân công việc đã thực vất vả. Tôi ở câu lạc bộ từ sáng đến tối và rời khỏi đó trong tình trạng kiệt sức. Tôi đã trải qua mọi loại cảm xúc đau đớn và thất vọng. Nhưng, sau một thời gian, tôi cũng có đủ khả năng thuê nhân viên, và cuối cùng tôi đã có thể nghỉ xả hơi. Lúc bắt đầu, tôi đã vay vốn từ tất cả các ngân hàng đồng ý cho tôi vay và tới giờ tôi đã trả lại được khá nhiều. Mọi thứ dần được sắp xếp ổn thỏa. Cho đến thời điểm đó, sinh nhai vẫn là vấn đề duy nhất tồn tại, và tôi không còn thời gian nào để nghĩ về bất cứ điều gì khác. Lúc bấy giờ tôi cảm thấy như thể tôi đã lên đến đỉnh của một cầu thang dốc và bước vào một không gian rộng mở. Tôi tin rằng tôi sẽ có thể xử gọn bất kỳ vấn đề mới mẻ nào xuất hiện. Tôi hít một hơi thật sâu, liếc nhìn lại phần cầu thang mà tôi vừa leo lên, rồi từ từ nhìn quanh mình và bắt đầu suy ngẫm về chặng đường tiếp theo của cuộc đời mình. Tôi sắp bước sang tuổi ba mươi. Tôi đã đến tuổi mà tôi sẽ không còn được coi là trẻ nữa. Và, khá bất ngờ, tôi nảy ra ý muốn viết một cuốn tiểu thuyết. Tôi có thể xác định chính xác thời điểm nó xảy ra. Đó là lúc 1:30 chiều ngày 1 tháng 4 năm 1978. Tôi đang ở sân vận động Jingu, một mình ở khu vực ngoài sân, xem một trận bóng chày. Thời điểm ấy, sân vận động Jingu nằm trong khoảng có thể đi bộ từ căn hộ của tôi, và tôi là một người hâm mộ trung thành của đội Yakult Swallows. Đó là một ngày mùa xuân đẹp trời, không mây, có gió ấm thổi qua. Hồi đó không có ghế dài trong khu vực ghế ngồi ngoài trời, chỉ có một con dốc đầy cỏ. Tôi đang nằm trên bãi cỏ, nhấp một ngụm bia lạnh, thỉnh thoảng lại nhìn lên bầu trời và thưởng thức trận đấu. Như thường lệ, sân vận động không đông đúc lắm. Đó là trận mở màn mùa giải, và Yakult Swallows đang đấu với Hiroshima Carp. Takeshi Yasuda đang ném bóng cho Swallows. Anh ta là một tay ném thấp người, chắc nịch với một đường bóng hiểm hóc. Anh ấy dễ dàng kết thúc lượt tấn công đầu tiên của đối thủ. Người đập bóng đầu tiên của Swallows là Dave Hilton, một cầu thủ trẻ người Mỹ mới gia nhập đội. Hilton đã anh đập một cú bóng về phía đường biên trái. Tiếng đập bóng vang vọng khắp sân vận động. Hilton dễ dàng hoàn thành lượt đầu tiên và tiếp tục đến lượt thứ hai. Và ngay lúc đó, một ý nghĩ ập đến trong tôi: Bạn biết không? Tôi có thể thử viết một cuốn tiểu thuyết. Tôi vẫn còn nhớ bầu trời rộng mở, cảm giác của cỏ mới, âm thanh của tiếng đập giòn tan thỏa mãn ấy. Có điều gì đó từ trên trời rơi xuống ngay lúc đó, và dù đó là gì, tôi đã tiếp nhận được. Tôi không hề có tham vọng trở thành một “tiểu thuyết gia”. Tôi chỉ có một mong muốn mãnh liệt là viết một cuốn tiểu thuyết. Tôi không có định hình cụ thể nào về cái tôi muốn viết – tôi chỉ có niềm tin rằng tôi có thể nghĩ ra điều gì đó thuyết phục. Khi tôi nghĩ về việc ngồi xuống bàn làm việc ở nhà và bắt đầu để viết, tôi nhận ra rằng tôi thậm chí còn không có một cây bút máy tử tế. Vậy là, tôi đến cửa hàng Kinokuniya ở Shinjuku và mua một tập giấy viết bản thảo và một cây bút Sailor trị giá năm đô la. Một khoản đầu tư nhỏ về phần tôi. Mùa thu năm đó, tôi đã viết xong một tác phẩm viết tay dài hai trăm trang. Tôi không biết phải làm gì với nó, vì vậy tôi cứ theo đà đưa đẩy và đã gửi nó đến cuộc thi dành cho những nhà văn mới của tạp chí văn học Gunzo. Tôi đã gửi nó đi mà không để lại một bản sao nào, có vẻ như tôi không quan tâm lắm nếu nó không được chọn và biến mất vĩnh viễn. Tôi quan tâm đến việc hoàn thành cuốn sách hơn là lo lắng việc liệu nó có được xuất bản hay không. Năm đó, Yakult Swallows, kẻ kém cỏi lâu năm, đã giành được cờ hiệu và tiếp tục đánh bại Hankyu Braves ở giải Nhật Bản. Tôi thực sự phấn khích vì điều này, và tôi đã xem một số trận đấu tại Sân vận động Korakuen. (Không ai thực sự tưởng tượng rằng Swallows sẽ giành chiến thắng, vì vậy địa điểm sân nhà của họ, Sân vận động Jingu, đã bị đội bóng chày đại học tiếp quản.) Đó là một mùa thu đặc biệt tuyệt đẹp. Bầu trời trong xanh và những cây bạch quả trước Phòng trưng bày Tưởng niệm Minh Trị vàng rực hơn những gì tôi từng thấy. Đây là mùa thu cuối cùng cho những năm đôi mươi của tôi. Mùa xuân năm sau đó, khi tôi nhận được điện thoại từ một biên tập viên của Gunzo nói với tôi rằng cuốn tiểu thuyết của tôi đã lọt vào danh sách rút gọn của giải thưởng, tôi đã hoàn toàn quên mất việc mình đã tham gia cuộc thi này. Tôi rất bận rộn với những việc khác. Nhưng cuốn tiểu thuyết đã giành được giải thưởng và được xuất bản vào mùa hè năm đó với tựa đề Lắng nghe gió hát. Cuốn tiểu thuyết đã được đón nhận nồng nhiệt, và trong khi không thực sự biết chuyện gì đang xảy ra, tôi đột nhiên thấy mình được gắn mác là một nhà văn mới, đang lên. Tôi đã rất ngạc nhiên, nhưng những người biết tôi còn ngạc nhiên hơn. Sau đó, trong khi vẫn điều hành câu lạc bộ nhạc jazz, tôi đã xuất bản một cuốn tiểu thuyết có độ dài trung bình thứ hai, “Pinball, 1973.” Tôi cũng đã viết một vài truyện ngắn và dịch một số truyện của F. Scott Fitzgerald. Cả “Lắng nghe gió hát” và “Pinball, 1973” đều được đề cử cho Giải Akutagawa danh giá, nhưng cuối cùng đều không đạt giải. Dù thế nào thì tôi cũng không quan tâm lắm. Nếu tôi giành được giải thưởng, tôi sẽ bị kẹt lại với các cuộc phỏng vấn và bài luận nên viết, và tôi sợ rằng điều này sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ của tôi ở câu lạc bộ. Trong ba năm, tôi tiếp tục điều hành câu lạc bộ nhạc jazz của mình — quản lý các tài khoản, kiểm tra hàng tồn kho, sắp xếp lịch cho nhân viên của mình, đứng sau quầy pha chế cocktail và nấu ăn, đóng cửa vào lúc trời sắp sáng và sau đó mới có thể viết, ở nhà, trên bàn ăn, cho đến khi tôi buồn ngủ. Tôi cảm thấy như thể tôi đang sống cuộc sống của hai người. Và, dần dần, tôi thấy mình muốn viết một loại tiểu thuyết thuần thực hơn. Tôi đã rất thích quá trình viết hai cuốn sách đầu tiên của mình, nhưng có những phần của cả hai mà tôi không mấy hài lòng. Tôi chỉ có thể viết vội vàng, giành giật từng chút thời gian — nửa giờ ở đây, một giờ ở đó — và, bởi vì tôi luôn mệt mỏi và cảm thấy như thể mình đang tranh đấu với thời gian, tôi không bao giờ có thể tập trung hoàn toàn được. Với tiếp cận rải rác như vậy, tôi chỉ có thể viết một vài thứ thú vị, mới mẻ, nhưng còn lâu mới có thể tạo ra tác phẩm phức tạp hoặc sâu sắc được. Tôi cảm thấy như thể tôi đã được trao cho cơ hội tuyệt vời để trở thành một tiểu thuyết gia, và tôi tự nhiên cũng mong muốn tận dụng cơ hội đó hết mức có thể. Vì vậy, sau khi suy nghĩ rất nhiều, tôi quyết định đóng cửa công việc kinh doanh và chỉ tập trung vào việc viết lách. Tại thời điểm này, thu nhập của tôi từ câu lạc bộ nhạc jazz rõ ràng là nhiều hơn thu nhập của tôi khi là một tiểu thuyết gia, một thực tế mà tôi phải tự cam chịu. Hầu hết bạn bè của tôi đều kiên quyết chống lại quyết định của tôi, hoặc ít nhất là nghi ngờ về điều đó. Họ nói: “Công việc kinh doanh của cậu đang tốt đẹp mà.” “Tại sao không để người khác tiếp quản nó cho cậu có thời gian viết tiểu thuyết của mình?” Nhưng tôi không thể làm theo lời khuyên của họ. Tôi là loại người phải cam kết hoàn toàn cho bất cứ điều gì tôi làm. Nếu, đã cam kết, và rồi tôi thất bại, tôi sẽ có thể chấp nhận điều đó. Nhưng tôi biết rằng nếu tôi làm mọi thứ một cách nửa vời và chúng không thành công, tôi sẽ luôn mang lấy hối tiếc. Vì vậy, bất chấp sự phản đối của mọi người, tôi đã bán câu lạc bộ và hơi ngượng ngùng, treo bảng hiệu tiểu thuyết gia của mình lên. “Anh chỉ muốn được tự do viết trong hai năm,” tôi giải thích với vợ. “Nếu không thành công, chúng ta luôn có thể mở một quán bar khác ở đâu đó. Anh vẫn còn trẻ và chúng ta vẫn sẽ có thời gian để bắt đầu lại.” Đó là vào năm 1981 và chúng tôi vẫn còn một khoản nợ đáng kể, nhưng tôi đảm bảo rằng tôi sẽ cố gắng hết sức và chờ đợi kết quả thôi. Sau đó, tôi sắp xếp để viết cuốn tiểu thuyết của mình và vào mùa thu cùng năm, tôi đã đến Hokkaido một tuần để thực hiện nghiên cứu. Đến tháng 4 năm sau, tôi đã hoàn thành “Cuộc săn cừu hoang”. Cuốn tiểu thuyết này dài hơn nhiều so với hai cuốn trước, phạm vi rộng hơn và câu chuyện được dẫn dắt nhiều hơn. Thời điểm viết xong cuốn này tôi có cảm giác rằng tôi đã tạo ra phong cách của riêng mình. Lúc bây giờ tôi thực sự có thể hình dung ra việc mình có thể kiếm sống như một tiểu thuyết gia. Các biên tập viên của Gunzo đang tìm kiếm thứ gì đó theo trào lưu chính thống hơn và họ không quan tâm lắm đến “Cuộc săn cừu hoang”. Thế nhưng, các độc giả dường như khá yêu thích cuốn sách mới, và sự đón nhận này chính là điều khiến tôi hạnh phúc nhất. Đối với tôi, đây chính là điểm khởi đầu thực sự của bản thân với tư cách là một tiểu thuyết gia. Khi đã quyết định trở thành một nhà văn chuyên nghiệp, một vấn đề khác nảy sinh: làm thế nào để duy trì thể lực khỏe mạnh. Điều hành câu lạc bộ đòi hỏi lao động tay chân liên tục, nhưng khi tôi ngồi trên bàn viết cả ngày, tôi bắt đầu tăng cân. Tôi cũng hút thuốc quá nhiều – 60 điếu mỗi ngày. Ngón tay của tôi ngả vàng, và cơ thể tôi ám mùi khói. Không thể duy trì tình trạng này được, tôi quyết định. Nếu tôi muốn có một cuộc sống lâu dài với tư cách là một tiểu thuyết gia, tôi cần tìm cách giữ gìn sức khỏe. Là một hình thức tập thể dục, chạy có rất nhiều lợi thế. Trước hết, bạn không cần ai đó giúp bạn; cũng như bạn không cần bất kỳ thiết bị gì đặc biệt. Bạn không cần phải đến bất kỳ địa điểm cụ thể nào để chạy bộ. Miễn là bạn có một đôi giày chạy bộ và một con đường vừa vặn, bạn đã có thể chạy theo ý muốn của mình. Sau khi đóng cửa quán bar, tôi đã quyết định thay đổi hoàn toàn phong cách sống của mình, và chúng tôi chuyển đến Narashino, quận Chiba. Khu vực này hồi đó khá là thôn dã và không hề có các cơ sở thể thao đàng hoàng xung quanh. Nhưng có một căn cứ Lực lượng Phòng vệ gần đó, và các con đường được bảo trì tốt. Cũng có một khu tập luyện ở khu vực lân cận gần Đại học Nihon, và nếu tôi đến đó vào sáng sớm, khi không có ai khác xung quanh, tôi có thể sử dụng đường đua này. Vì vậy, tôi không phải suy nghĩ quá nhiều về việc sẽ chọn hoạt động sẽ chọn thể nào. Tôi chỉ cần chạy. Không lâu sau đó, tôi cũng bỏ thuốc lá. Bỏ thuốc lá không dễ chút nào, nhưng tôi thực sự không thể vừa chạy bộ và tiếp tục hút thuốc. Niềm vui thú chạy bộ đã giúp tôi vượt qua các triệu chứng của việc cai thuốc lá rất nhiều. Bỏ thuốc lá cũng giống như một cử chỉ tượng trưng tạm biệt cuộc sống mà tôi đã từng sống. Ở trường, tôi chưa bao giờ quan tâm nhiều đến lớp học thể dục hay Ngày hội thể thao, vì những hoạt động rắc rối này đều là ép buộc đối với tôi. Nhưng bất cứ khi nào tôi có thể làm điều gì đó tôi thích làm, vào thời điểm tôi muốn làm và theo cách tôi muốn làm, tôi sẽ làm thật trọn vẹn hết mức có thể. Vì tôi không phải là kiểu vận động viên điền kinh hay đại loại vậy, tôi không giỏi với những bộ môn mà nhiều thứ được quyết định trong chốc lát. Chạy đường dài phù hợp với tính cách của tôi hơn, điều này cũng có thể giải thích tại sao tôi có thể kết hợp nhuần nhuyễn nó vào cuộc sống hàng ngày của mình. Bản thân tôi và việc học cũng vậy. Trong suốt quá trình học tập của mình, từ tiểu học đến đại học, tôi không bao giờ hứng thú với những thứ mà tôi bị buộc phải học. Vậy nên, mặc dù điểm của tôi không phải là loại bạn phải giấu giếm với mọi người, nhưng tôi không nhớ là đã bao giờ được khen ngợi về thành tích tốt, điểm số tốt hay là người giỏi nhất trong bất cứ lĩnh vực gì hay không. Tôi chỉ bắt đầu thích học sau khi đã vượt qua hệ thống giáo dục và trở thành cái gọi là “thành viên của xã hội”. Nếu điều gì đó khiến tôi hứng thú và tôi có thể nghiên cứu nó theo tốc độ của riêng mình, thì tôi đã thu thập được kiến ​​thức hiệu quả một cách hợp lý. Điều tuyệt vời nhất khi trở thành một nhà văn chuyên nghiệp là tôi có thể đi ngủ sớm và dậy sớm. Khi tôi điều hành câu lạc bộ, tôi thường thức cho đến gần sáng. Câu lạc bộ đóng cửa lúc mười hai giờ, nhưng sau đó tôi phải dọn dẹp, xem lại biên lai, ngồi nói chuyện và uống một ly để thư giãn. Làm hết mọi thứ và bạn chợt nhận ra, lúc này đã là 3 giờ sáng và mặt trời đã nhấp nhô ló dạng rồi. Thường thì tôi vẫn ngồi bên bàn bếp và viết, khi ngoài trời đã bắt đầu sáng. Hiển nhiên, vào lúc tôi thức dậy trong ngày, mặt trời đã lên cao. Khi tôi bắt đầu sống với tư cách là một tiểu thuyết gia, vợ tôi và tôi quyết định rằng chúng tôi sẽ đi ngủ ngay sau khi trời tối và thức dậy với ánh bình minh. Chúng tôi nghĩ, lối sống này thuận tự nhiên và đáng trân trọng hơn. Chúng tôi cũng quyết định rằng từ đó trở đi, chúng tôi sẽ cố gắng chỉ gặp những người chúng tôi muốn gặp và có thể tốt đẹp mà không phải gặp những người chúng tôi không muốn gặp. Chúng tôi cảm thấy rằng, ít nhất trong một khoảng thời gian, chúng tôi có thể cho phép bản thân tận hưởng cái thú khiêm tốn này. Trong cuộc sống mới, đơn giản và bình thường của mình, tôi thức dậy trước 5 giờ và đi ngủ trước 10 giờ. Mỗi người sẽ có mỗi thời điểm khác nhau trong ngày mà hiệu suất và phong độ của họ sẽ đạt mức tối đa, nhưng tôi chắc chắn tôi là người của buổi sáng. Buổi sáng là lúc tôi có thể tập trung cao độ. Sau đó, tôi tập thể dục hoặc làm những công việc vặt không yêu cầu mức tập trung cao. Đến cuối ngày, tôi thư giãn, đọc sách hoặc nghe nhạc. Nhờ công thức thời gian này, tôi đã có thể làm việc hiệu quả trong hai mươi bảy năm nay. Tuy nhiên, cuộc sống không thiên về đêm này của tôi đôi khi khiến cho các mối quan hệ xã hội nảy sinh chút vấn đề. Mọi người cảm thấy khó chịu khi bạn liên tục từ chối lời mời của họ. Nhưng, ở thời điểm đó, tôi cảm thấy rằng mối quan hệ không thể thiếu mà tôi nên xây dựng trong cuộc đời mình không phải với một người cụ thể mà là với một số lượng độc giả nhất định. Độc giả của tôi sẽ hoan nghênh bất cứ phong cách sống nào mà tôi chọn, miễn là tôi đảm bảo rằng mỗi tác phẩm mới là một sự cải tiến so với tác phẩm trước. Và đó chẳng phải là nhiệm vụ của tôi — và là ưu tiên hàng đầu — với tư cách là một tiểu thuyết gia sao? Tôi không nhìn thấy khuôn mặt độc giả của mình, vì vậy theo một nghĩa nào đó, mối quan hệ của tôi với họ chỉ là khái niệm, nhưng tôi luôn coi mối quan hệ này là điều quan trọng nhất trong cuộc đời mình. Nói cách khác, bạn không thể làm hài lòng tất cả mọi người. Ngay từ lúc tôi điều hành câu lạc bộ, tôi đã hiểu điều này. Rất nhiều khách hàng đã đến với câu lạc bộ. Nếu một trong số mười người thích nơi này và quyết định đến một lần nữa, vậy là đủ rồi. Nếu một trong số mười người là khách hàng lặp lại, thì việc kinh doanh sẽ tồn tại được. Nói cách khác, chín trong số mười người không thích câu lạc bộ cũng không thành vấn đề. Nhận ra điều này đã giúp tôi gỡ xuống gánh nặng trên đôi vai mình. Tuy nhiên, tôi phải chắc chắn rằng một người đã thích nơi này thì là đã thực sự thích nó. Để làm được điều đó, tôi phải làm rõ quan niệm triết lý của mình trước, và kiên nhẫn duy trì triết lý đó dù thế nào đi nữa. Đây là những gì tôi học được từ việc điều hành việc kinh doanh. Sau “Cuộc săn cừu hoang”, tôi tiếp tục viết với cùng thái độ mà tôi đã phát triển khi còn là một chủ doanh nghiệp. Và với mỗi tác phẩm, lượng độc giả của tôi — 1/10 người lặp lại — tăng lên. Những độc giả đó, hầu hết là những người trẻ tuổi, sẽ kiên nhẫn chờ đợi cuốn sách tiếp theo của tôi xuất hiện, sau đó mua và đọc ngay khi nó có mặt ở các hiệu sách. Đây là tình huống lý tưởng, hoặc ít nhất là rất thoải mái đối với tôi. Tôi tiếp tục viết những thứ tôi muốn viết, chính xác theo cách tôi muốn viết chúng, và nếu điều đó cho phép tôi kiếm sống, thì tôi không thể đòi hỏi nhiều hơn nữa. Khi cuốn tiểu thuyết “Rừng Nauy” của tôi bất ngờ bán được hơn hai triệu bản, mọi thứ đã có chút thay đổi, nhưng điều đó xảy ra vào năm 1987, khá lâu sau này. Lần đầu tiên bắt đầu chạy, tôi đã không thể chạy đường dài. Tôi chỉ có thể chạy trong khoảng hai mươi hoặc ba mươi phút. Thậm chí chừng đó còn khiến tôi thở hổn hển, tim đập thình thịch, chân run rẩy nữa. Tôi đã không thực sự tập thể dục trong một thời gian dài. Lúc đầu, tôi cũng hơi xấu hổ khi mọi người trong khu phố nhìn thấy tôi chạy. Nhưng, khi tôi tiếp tục chạy, cơ thể bắt đầu chấp nhận sự thật rằng nó đang chạy, và tôi dần dần tăng sức chịu đựng của mình lên. Tôi đã có được phong độ của một vận động viên điền kinh, nhịp thở của tôi trở nên đều đặn hơn và mạch của tôi ổn định hơn. Vấn đề không phải là tốc độ hoặc khoảng cách mà là phải chạy mỗi ngày, không gián đoạn. Vì vậy, giống như ăn, ngủ, làm việc nhà và viết lách, chạy bộ đã được đưa vào thói quen hàng ngày của tôi. Vì nó đã trở thành một thói quen tự nhiên, tôi cảm thấy ít xấu hổ hơn về nó. Tôi đến một cửa hàng thể thao và mua một số đồ chạy bộ và một số đôi giày tử tế. Tôi cũng đã mua một chiếc đồng hồ bấm giờ và đọc một cuốn sách về chạy bộ. Bây giờ nhìn lại, tôi nghĩ điều may mắn nhất là tôi được sinh ra với một cơ thể cường tráng, khỏe mạnh. Điều này đã giúp tôi có thể chạy hàng ngày trong hơn một phần tư thế kỷ nay, và tham gia thi đấu trong một vài đường đua. Tôi chưa bao giờ bị thương, chưa bao giờ bị đau và chưa một lần bị ốm. Tôi không phải là một người chạy giỏi, nhưng tôi là một người chạy mạnh mẽ. Đó là một trong số rất ít thiên phú mà tôi có thể tự hào. Năm 1983 trôi qua và tôi tham gia cuộc đua đường trường đầu tiên của mình. Không dài lắm đâu — một đường chạy 5Km — nhưng đây là lần đầu tiên tôi có một số báo danh được ghim vào áo của mình và chờ đợi trong một nhóm lớn những vận động viên khác một tiếng hô chính thức, “Chuẩn bị sẵn sàng, tiến lên!” Sau đó, tôi nghĩ, Này, cũng không tệ lắm nhỉ! Tháng 5 năm đó, tôi đã tham gia một cuộc đua dài 13 km quanh Hồ Yamanaka, và vào tháng 6, vì muốn kiểm tra xem mình có thể chạy được bao xa, tôi đã chạy vòng quanh Cung điện Hoàng gia, ở Tokyo. Tôi đã chạy được khoảng bảy vòng, tổng cộng 22,4 dặm, với tốc độ khá ổn và chân tôi không bị đau chút nào. Có lẽ tôi thực sự có thể chạy marathon, tôi kết luận. Sau đó, tôi mới biết được hóa ra phần khó nhất của một cuộc chạy marathon xuất hiện ở sau dặm thứ hai mươi hai. (Bây giờ tôi đã tham gia 26 cuộc đua marathon rồi.) Nhìn vào những bức ảnh của tôi được chụp vào giữa những năm tám mươi, rõ ràng là tôi chưa có vóc dáng của một vận động viên điền kinh khi ấy. Tôi đã chưa chạy đủ, chưa có được cơ bắp cần thiết; cánh tay tôi quá gầy, đôi chân tôi quá gầy. Thật ấn tượng là tôi có thể chạy marathon với một thân hình như thế. (Bây giờ, sau nhiều năm chạy bộ, hệ cơ của tôi đã thay đổi hoàn toàn). Nhưng ngay cả khi ấy tôi vẫn có thể cảm nhận được những thay đổi về thể chất diễn ra hàng ngày, điều đó khiến tôi thực sự hạnh phúc. Tôi cảm thấy rằng, mặc dù tôi đã ngoài ba mươi, tôi và cơ thể của tôi vẫn còn một số khả năng. Tôi càng chạy, tiềm năng của tôi càng được bộc lộ. Cùng với đó, chế độ ăn uống của tôi cũng bắt đầu thay đổi. Tôi bắt đầu ăn chủ yếu là rau, với cá là nguồn cung cấp protein chính của tôi. Dù sao thì tôi cũng chưa bao giờ thích ăn thịt, và sự ác cảm này giờ càng rõ rệt hơn. Tôi cắt giảm cơm và rượu và bắt đầu chỉ sử dụng các nguyên liệu tự nhiên. Đồ ngọt không phải là một vấn đề, vì tôi chưa bao giờ quan tâm nhiều đến chúng. Nghĩ đến thì có một cơ thể dễ dàng tăng cân có lẽ chính là điều may trong cái rủi. Nói cách khác, nếu tôi không muốn tăng cân, tôi phải tập thể dục chăm chỉ hàng ngày, xem xét những gì tôi ăn và cắt giảm bớt vài thứ ham mê. Những người có thể giảm cân một cách tự nhiên không cần phải tập thể dục hoặc theo dõi chế độ ăn kiêng của họ. Đó là lý do tại sao, trong nhiều trường hợp, sức mạnh thể chất của họ suy giảm khi họ già đi. Ai trong chúng ta có xu hướng dễ tăng cân nên tự coi mình là người may mắn bởi bạn có một chiếc đèn đỏ báo hiệu có thể nhìn thấy rõ ràng như vậy. Tất nhiên, không phải suy nghĩ theo hướng này lúc nào cũng dễ dàng. Tôi nghĩ quan điểm này cũng áp dụng cho công việc của người viết tiểu thuyết. Những nhà văn được trời phú cho tài năng bẩm sinh có thể viết một cách dễ dàng, bất kể họ làm gì hoặc không làm gì. Giống như nước từ suối tự nhiên, các câu văn chỉ cần trôi chảy, và với rất ít hoặc không cần nỗ lực, những nhà văn này vẫn có thể hoàn thành một tác phẩm. Thật không may, tôi không thuộc loại đó. Tôi phải dùng một cái đục để đục một tảng đá và đào ra được một cái hố sâu trước khi tôi có thể xác định được nguồn gốc của sự sáng tạo của mình. Mỗi khi bắt đầu một cuốn tiểu thuyết mới, tôi phải nạo vét một hố mới. Tuy nhiên, vì tôi đã duy trì kiểu sống này trong nhiều năm, nên tôi đã trở nên khá thuần thục, cả về mặt kỹ thuật và thể chất, khi đục ra những cái hố đó trên đá và xác định các mạch nước mới. Ngay sau khi tôi nhận thấy một nguồn nước này bị cạn kiệt, tôi liền chuyển sang một nguồn khác. Nếu một người dựa vào nguồn tài năng thiên bẩm bỗng nhiên nhận ra họ đã sử dụng nó đến cạn kiệt, họ sẽ gặp rắc rối. Nói cách khác, hãy đối mặt với điều này: cuộc sống về cơ bản là không công bằng. Tuy nhiên, ngay cả trong một tình huống không công bằng, tôi nghĩ vẫn có thể tìm kiếm một loại công bằng. Khi tôi nói với mọi người rằng tôi chạy mỗi ngày, một số người cảm thấy khá ấn tượng. “Bạn phải có rất nhiều sức mạnh ý chí,” họ nói với tôi. Tất nhiên, thật tuyệt khi được khen ngợi như vậy — tốt hơn rất nhiều so với việc bị chê bai. Nhưng tôi không nghĩ chỉ có đơn thuần sức mạnh ý chí sẽ khiến người ta có thể làm được điều gì đó. Thế giới không đơn giản như vậy. Thành thật mà nói, tôi thậm chí không nghĩ rằng có nhiều mối tương quan giữa việc tôi chạy hàng ngày và việc tôi có sức mạnh ý chí hay không. Tôi nghĩ rằng tôi đã có thể chạy hơn hai mươi năm vì một lý do: nó phù hợp với tôi. Hoặc, ít nhất là, tôi không thấy đó là chuyện gì đau đớn cả. Con người tự nhiên tiếp tục làm những điều họ thích và họ không tiếp tục làm những gì họ không thích. Đó là lý do tại sao tôi không bao giờ khuyên người khác nên thử chạy bộ. Nếu ai đó có sở thích chạy đường dài, anh ta sẽ bắt đầu tự chạy. Nếu anh ấy không quan tâm đến nó, thì sẽ không có lời khuyên nào hữu hiệu cả. Chạy marathon không phải là môn thể thao dành cho tất cả mọi người, cũng như trở thành một tiểu thuyết gia không phải là công việc dành cho tất cả mọi người. Không ai từng đề xuất hoặc thậm chí đề nghị tôi trở thành một tiểu thuyết gia — thực tế, một số đã cố gắng ngăn cản tôi. Tôi chỉ đơn giản có ý tưởng trở thành một nhà văn và đó là những gì tôi đã làm. Mọi người chạy vì họ có ý định như vậy. Không cần biết việc chạy đường dài có phù hợp với tôi đến đâu, tất nhiên vẫn có những ngày tôi cảm thấy uể oải và không muốn chạy. Vào những ngày như thế, tôi cố viện ra đủ thứ lý do chính đáng để không chạy. Một lần, tôi đã phỏng vấn vận động viên điền kinh Olympic Toshihiko Seko, ngay sau khi anh ấy nghỉ chạy. Tôi hỏi anh ta, “Có bao giờ một vận động viên chạy ở cấp độ của bạn cảm thấy ‘hôm nay thật không muốn chạy’ không?” Anh ta nhìn chằm chằm vào tôi và sau đó, với một giọng nói rõ ràng rằng anh ta nghĩ câu hỏi này ngu ngốc đến mức nào, trả lời, “Tất nhiên. Mọi lúc! ” Bây giờ tôi nghĩ lại, tôi có thể thấy đó là một câu hỏi ngớ ngẩn. Tôi đoán rằng ngay cả hồi đó tôi cũng biết nó ngớ ngẩn như thế nào, nhưng tôi muốn nghe câu trả lời trực tiếp từ một người tầm cỡ như Seko. Tôi muốn biết liệu mặc dù chúng tôi khác nhau về sức mạnh và động lực, nhưng chúng tôi có cùng cảm xúc khi thắt dây giày chạy bộ vào buổi sáng hay không. Câu trả lời của Seko mang đến một hơi thở phào nhẹ nhõm lớn. Chung qui lại, chúng ta đều giống nhau, tôi nghĩ vậy. Giờ đây, bất cứ khi nào tôi cảm thấy không muốn chạy, tôi luôn tự hỏi bản thân mình điều tương tự: Bạn có thể kiếm sống bằng nghề viết tiểu thuyết, làm việc tại nhà, tự đặt giờ cho mình. Bạn không cần phải đi trên một chuyến tàu chật cứng hoặc ngồi trong các cuộc họp nhàm chán. Bạn không nhận ra mình may mắn như thế nào sao? So với điều đó, chạy một giờ xung quanh khu phố là không có gì, phải không? Sau đó, tôi buộc dây giày chạy bộ của mình và khởi hành mà không do dự. (Tôi nói điều này và biết rất rõ rằng luôn có những người lựa chọn đi một chuyến tàu đông đúc và tham dự các cuộc họp thay vì chạy mỗi ngày.) Ở bất kỳ mức độ nào thì, đây là cách tôi bắt đầu chạy. Ba mươi ba — đó là số tuổi của tôi khi đó. Vẫn còn đủ trẻ, dù không còn là thanh niên. Cái tuổi mà Chúa đã chết. Cái tuổi mà F. Scott Fitzgerald bắt đầu xuống dốc. Đó là độ tuổi mà có lẽ là một ngã rẽ trong cuộc đời. Đó là độ tuổi mà tôi bắt đầu cuộc sống của mình với tư cách là một vận động viên chạy bộ, và đó là điểm khởi đầu muộn màng nhưng có thật của tôi với tư cách là một tiểu thuyết gia. (Dịch từ bản tiếng Anh của Philip Gabriel – đăng trên The New Yorker ngày 2 tháng 6 năm 2008)

Khám phá thêm từ Chuyện Đọc

Đăng ký để nhận các bài đăng mới nhất được gửi đến email của bạn.