Trở thành một nhà văn – V.S. Naipaul

Tôi thật sự không biết bằng cách nào tôi đã trở thành một nhà văn. Tôi có thể liệt kê những cột mốc và những sự kiện trong sự nghiệp của tôi. Nhưng bản thân cái tiến trình đối với tôi vẫn luôn là một bí ẩn. Sự bí ẩn mà tôi chẳng thể nào bóc tách ra được; ví dụ như, ngay từ đầu trong tôi đã khởi phát ra một tham vọng – một ước muốn được trở thành nhà văn, được khác biệt, được nổi tiếng – và thật lạ lùng khi cái tham vọng này lại đến với tôi trước cả khi tôi có bất cứ ý tưởng nào để viết ra.

Và sự thật là, tôi cho rằng, nếu tôi không hề bị chi phối bởi một sự cần thiết nào đó, hay thậm chí là một thảm kịch, có lẽ tôi sẽ không bao giờ viết.

Trong kỳ học đầu tiên của tôi ở Oxford năm 1950, tôi nhớ tôi đã cuốc bộ khá nhiều – tôi nhớ những con đường, những chiếc là mùa thu, hình ảnh những chiếc ô tô và xe tải lướt qua, cuốn những chiếc lá bay lên – và lúc nào cũng tự hỏi tôi sẽ viết về cái gì đây. Tôi đã cố gắng thật nhiều để nhận được học bổng đến Oxford, để trở thành nhà văn. Nhưng lúc bây giờ, khi đã ở ngay tại Oxford, tôi lại không biết phải viết về cái gì. Và sự thật là, tôi cho rằng, nếu tôi không hề bị chi phối bởi một sự cần thiết nào đó, hay thậm chí là một thảm kịch, có lẽ tôi sẽ không bao giờ viết. Cái ý tưởng rằng mình sẽ chẳng đả động gì đến hoài bão, đến tham vọng trở thành “thứ gì đó” thật sự rất dễ chịu và cám dỗ – nó hoàn toàn giống với cảm giác mà những người lính gật gà trên đường rút lui khỏi Moscow của Napoleon thả mặc cho những cơn buồn ngủ lôi cuốn và chi phối.

Tôi cảm thấy không thật tự nhiên khi phải ngồi xuống và viết một cuốn sách. Và đó cũng là cái cảm giác vẫn còn canh cánh bên tôi, những năm sau này, mỗi khi tôi bắt đầu một cuốn sách – tôi đang nói về chuyện sáng tạo ấy. Không có một chủ đề hay một câu chuyện cụ thể nào dành cho tôi. Mà có rất nhiều thứ được dành cho tôi; tôi viết nhiều đoạn mở đầu thiếu tự nhiên và quá nhiều ý thức cá nhân trong những cuốn sách của mình; cho đến cuối cùng, một vài thôi thúc thật sự đã xuất hiện – thứ mà tôi luôn hướng đến – chiếm hữu tôi, và tôi gương buồm ra khơi, thoát khỏi những năm tháng lao lực, nặng nhọc. Và đó vẫn còn là bí ẩn – nó vượt qua khỏi những kỹ thuật khéo léo mà người ta nên chạm đến và khuấy động, nó là thứ ẩn sâu nhất trong tâm hồn, trái tim và ký ức của một người.

Tất cả những hình thức văn học đều là do chúng ta tạo nên, và chúng liên tục thay đổi, để phù hợp với tinh thần và văn hóa thời đại của chúng ta. Ví dụ, trong một thời đại nào đó, một người có thiên tính nghiêng về văn học thuần túy cũng có thể nghĩ đến việc viết kịch cho nhà hát; cũng có thể bằng cách này hay cách khác – thứ mà tôi không thể làm – sắp xếp những tài nguyên của anh ta thành những cảnh những lớp và những màn trong một vở kịch; sẽ có thể không viết cho những tờ báo, những nhà xuất bản mà sẽ chỉ toan viết những mẫu hội thoại những phần kịch mà các diễn viên thấy thu hút, thấy thích thú và – như một vài người viết kịch bản đã bảo tôi – họ phải tự hình dung (để thuận tiện trong việc viết kịch bản) rằng họ đang ngồi ở một chỗ trên hàng ghế ngay trước sân khấu.

Ở một giai đoạn khác, một kỷ nguyên không có radio và băng đĩa, một thời đại được thống trị bởi công nghệ in ấn, một vài người ham viết có thể sẽ sắp đặt để một câu chuyện được xuất bản thành từng kỳ, qua nhiều tháng, hoặc lấp đầy thành ba tập. Trước đó, người viết có thể đã cố gắng kể những câu chuyện theo từng đoạn thơ xướng, hoặc từng đoạn tuồng, theo nhịp điệu và không theo nhịp điệu; hoặc theo một trường sử thi.

Tất cả những hình thức ấy, điều là do con người tạo ra như chúng ta có thể thấy ngày nay, chúng đã xuất hiện một cách hết sức tự nhiên và đúng đắn như những đồng nghiệp của chúng – những dạng tiểu thuyết tiêu chuẩn ngày nay. Các hình thức tiểu thuyết cũng đều là thứ do con người tạo nên, vì với sự đơn giản hóa và sự méo mó của nó, với các hoạt cảnh giả tạo và những ý niệm về trải nghiệm đã khiến cho người ta mặc định rằng một cơn khủng hoảng luôn phải được giải quyết trước khi cuộc sống khôi phục lại tiến trình của chính nó. Tôi đang miêu tả, rất chân thực, cái cảm giác giả tạo đã theo tôi trong những ngày khởi đầu, khi tôi cố gắng viết và tự hỏi phần trải nghiệm nào của tôi có thể vừa vẹn với hình thức này – tự hỏi, thật sự, tôi phải cố gắng như thế nào mới tìm ra cách có thể phỏng lại hoặc thậm chí bóp méo trải nghiệm của bản thân, để khiến nó vừa vẹn với cái hình thức quan trọng ấy.

Hình thức văn chương rất cần thiết: các trải nghiệm phải được truyền tải thành vài cách thức thống nhất hoặc được trình bày một cách thật dễ dàng để người ta hiểu rõ chúng. Nhưng một vài hình thức nọ, giống như thời trang ăn mặc, có thể trở nên cực đoan trong vài thời điểm. Và sau đó những hình thức này, không còn là kết tinh hay là những trải nghiệm sâu sắc nữa, mà có thể sai lệch hoặc bị xem như một gánh nặng. Trollope, người tạo nên một hiện tượng – Trollope, một nhà xã hội, với một kiến thức sâu rộng về xã hội và thế giới văn chương, ông sở hữu một lượng kiến thức thậm chí vượt trội hơn lượng kiến thức của Dickens –  là một người thật sự lôi cuốn. Nhưng tôi lại gặp vấn đề với Trollope này, người đang tạo nên một hiện tượng, ông dàn xếp để tháo gỡ câu chuyện của ông – cái thực chất triết học và xã hội học mà tôi có thể đã nhận được trong những trang mở đầu của ông. Thackeray cũng tương tự vậy: tôi luôn có thể cảm thấy đôi vai ông đang bị đè nặng bởi tình tiết và cách câu chuyện cần được kể ra.

Quan niệm của chúng ta về sở thích văn chương và các câu chuyện thực tế đã thay đổi qua hàng trăm năm. Và tất cả những tác phẩm văn chương của thế kỷ qua và cả điện ảnh và cả truyền hình đã giúp chúng ta trở nên nhạy cảm hơn. Và vào thế kỷ 19, những nhà văn Anh, những người đã mang đến cho tôi thứ tiểu thuyết thú vị nhất – thứ mang lại cách nhìn mới về cuộc sống loài người, cổ vũ sự đối ngược – là những nhà văn, những người không còn được xem là những tiểu thuyết gia trong chính thời đại mà họ đang sống nữa.

Tôi nghĩ về những nhà văn như Richard Jefferies, những bài luận của ông về người nông dân mang quá nhiều tri thức và trải nghiệm đến mức mà chúng dường như chứa đựng toàn bộ đời người. Hoặc là William Hazlitt. Hoặc là Charles Lamb, cụ thể và cứng rắn và sầu thảm, họ không phải là những huyền thoại tiểu luận tử tế và nhạt nhòa. Hoặc William Cobbett, nhà báo và nhà tiểu luận hăng hái với chủ đề đồng quê, và trong những bài viết hiểm hóc của ông, thông qua những định kiến ngông cuồng, cho chúng ta thấy được một bức tranh rõ ràng nhất về những con đường và những cánh đồng và những con người và những khách sạn nhỏ và cả thức ăn của họ. Tất cả những nhà văn này sẽ phải chứng kiến những ý tưởng của họ bị pha loãng đi, bị bóp méo bởi cái hình thức tiểu thuyết đang tồn tại trong thời đại của chúng. Tất cả chúng, chính là tiểu thuyết như chúng nên là, chúng tự mình mang đến cái hình thức của chính chúng.

Mỗi nhà văn tâm huyết nào cũng đều phải là một bản gốc; anh ta không thể mãn nguyện khi viết hoặc muốn xuất bản thứ đã từng được tạo ra trước đây. Và mỗi nhà văn tâm huyết nào như một lẽ tự nhiên đều nhận thấy vấn đề của hình thức; bởi vì anh ta biết rằng tuy anh ta có được sự giáo dục và được truyền cảm hứng bởi những nhà văn anh ta đã đọc và đang đọc, hình thức luôn khớp với kinh nghiệm của những nhà văn này, và chúng không hề phù hợp một chút nào cả với anh ta.

Philip Larkin – một người độc nhất và rất vĩ đại, đặc biệt trong tác phẩm gần đây của ông, cho rằng hình thức và nội dung là hai thứ không thể chia tách được. Ông ta làm việc thật cần mẫn và từ tốn, ông nói “Anh tìm ra thứ để nói cũng như cách để nói, và điều đó cần thời gian.” Nghe có vẻ đơn giản, nhưng nó cho ta thấy một sự thật không mấy dễ dàng. Văn học không giống âm nhạc, nó không dành cho người trẻ, không có điều thần kỳ trong viết lách. Kiến thức và kinh nghiệm một nhà văn tìm kiếm để truyền tải là quan hệ giữa người và người và những tình cảm ấy, nó cần thời gian, nó hầu như có thể lấy cả đời người, để truyền tải cái kinh nghiệm ấy, để hiểu cái mà anh ta đã trải qua, và nó cần được xem xét một cách kỹ lưỡng và khéo léo, sau đó, để cho kinh nghiệm tự nhiên không bị mất đi, không bị pha loãng bởi những hình thức sai lệch. Những hình thức của người khác đã phụng sự cho những suy tư của chính những người khác ấy.

Tôi đã luôn quan tâm đến vấn đề của hình thức, và thậm chí là từ vựng, bởi vì tôi sớm nhận ra rằng giữa văn chương tôi biết và đọc, thứ văn học thực thụ, thứ đã gieo trồng tham vọng của tôi, giữa thứ ấy và xuất thân của tôi, có một vách ngăn, một sự bất hòa. Và mọi sự nhanh chóng bày rõ trước mặt tôi rằng sẽ không hề có chuyện cứ đơn giản bắt chước những hình thức thôi.

Trong những cuốn sách đầu tiên của mình, James Joyce đã viết về những khó khăn của ông hay của những nhân vật chính của ông, trong khi sử dụng ngôn ngữ Anh. “Thứ ngôn ngữ mà chúng ta đang dùng để nói này, là của ông ta, trước khi là của tôi. Những từ ngữ trên đôi môi của ông ta và trên môi tôi mới khác nhau làm sao: nhà, Christ, rượu, chủ nhân. Tôi không thể nói hoặc viết những từ này mà không khiến bản thân lo âu…. Tâm hồn tôi bị ăn mòn dần trong chiếc bóng ngôn ngữ của ông ta.”

James Joyce là một người thử nghiệm hình thức thuần túy – hình thức tách biệt hoàn toàn với nội dung. Và thứ James Joyce chỉ ra về ngôn ngữ không phải là thứ tôi muốn làm. Tôi không bao giờ cảm thấy có cùng vấn đề với ngôn ngữ Anh – ngôn ngữ như ngôn ngữ. Thứ tôi bận tâm chính là một phần của từ vựng, về những ý nghĩa khác nhau hoặc những sự liên đới của từ. Khu vườn, căn nhà, vườn ươm, người làm vườn, bất động sản: những từ này diễn tả cùng một thứ ở nước Anh, và mang một vài nghĩa hoàn toàn khác đối với những người đến từ Trinidad, một thuộc địa nông nghiệp, một thuộc địa được sắp xếp để làm công việc ươm mầm nông nghiệp. Vậy thì, làm cách nào, tôi có thể viết một cách chân thành và công bằng nếu mỗi từ tôi sử dụng, với ý nghĩa riêng cho chính tôi, tuy vậy đối với người đọc bên ngoài kia lại là quá thường gặp, quá quen thuộc và gây ra một liên đới không mong muốn với văn học ngày xưa. Tôi nhận ra để truyền tải thứ tôi đã trông thấy, tôi phải xác định bản thân là một nhà văn hoặc là một người kể chuyện; tôi phải phiên dịch lại sự vật. Tôi đã thử phiên dịch chúng theo nhiều cách trong sự nghiệp của tôi. Và sau hai năm, tôi chỉ có thể hoàn thành được một cuốn sách mà cuối cùng, như tôi nghĩ, tôi phải tìm ra cách kết hợp được vấn đề về phiên dịch này với câu chuyện kể của tôi.

Mục đích của tôi là lẽ phải, một lẽ phải với một kinh nghiệm riêng biệt, chứa đựng được định nghĩa về việc viết. Tuy nhiên tôi đã ý thức rằng cho đến cuối cuốn sách thì cái tiến trình sáng tạo vẫn luôn là một bí ẩn.

“Mối liên quan ở đây chính là có một thứ nông cạn và trống rỗng trong nghề viết văn của một nhà văn, và cũng lại có một vài thứ sâu sắc và trầm ngâm hơn trong đời sống cá nhân của ông ta

Nhà phê bình người Pháp, Sainte-Beuve nghĩ rằng những chi tiết cá nhân của cuộc đời nhà văn sẽ bộc lộ rõ ràng hơn về nhà văn. Phương pháp này của Sainte-Beuve đã bị tấn công một cách cay đắng bởi cuốn sách kỳ lạ của Proust – một cuốn sách với hình thức kì lạ, nguyên gốc và đẹp dẽ, nó chứa một phần tự truyện, một phần phê bình văn học và một phần hư cấu – có tên là Chống lại Sainte-Beuve, cuốn sách chỉ trích cách thức và phương pháp phê bình của ông ấy, nó xuất bản những bức thư tình của nhà văn, cũng như những yếu tố tự truyện và hư cấu của tác phẩm.

“Phương pháp này, Proust viết (theo bản dịch của Sylvia Townsend Warner) và ông ấy đang nói về phương pháp của Sainte-Beuve – làm ngơ thứ mà sự tự nhận biết dễ dàng dạy chúng ta, rằng một cuốn sách là sản phẩm của một phần tôi khác từ chính phần tôi mà chúng ta biểu hiện ra ở nơi chúng ta sống, trong cuộc sống xã hội của chúng ta, trong những thói xấu xa của chúng ta.” Và không lâu sau đó, Proust giải thích “Mối liên quan ở đây chính là có một thứ nông cạn và trống rỗng trong nghề viết văn của một nhà văn, và cũng lại có một vài thứ sâu sắc và trầm ngâm hơn trong đời sống cá nhân của ông ta…. Sự thật, đó chính là bí mật của cuộc sống bên trong mỗi người, viết trong nỗi cô đơn và cho chính sự cô đơn của mỗi người, thứ mà người ta phô bày ra cho công chúng hay. Còn những điều mà người ta dành cho cuộc sống riêng tư – trong đối thoại, dẫu cho có lẽ đã được gạn lọc… chỉ là sản phẩm của một cái tôi bề mặt, không phải là cái tôi bên trong, thứ mà người ta chỉ có thể phục hồi được khi đặt thế giới qua bên cạnh, và cái tôi sinh động, có mối liên kết chặt chẽ với thế giới này.”

Và nó thật là kỳ lạ – tuy nhiên không thật sự ngạc nhiên – rằng hầu như những ý nghĩ giống nhau về chính việc viết của những người viết có thể được diễn tả bởi một người viết khác, Somerset Maugham. Trong tiểu thuyết miêu tả chân dung của Thomas Hardy, Cakes and Ale, Maugham, bằng một sự cố gắng ngoại mục (thứ đã khiến ông chịu nhiều gièm pha), diễn tả cái bi kịch của tiểu thuyết gia xứ Wessex khi phải sống một cuộc đời tầm thường lạ thường, và vì chính nguyên nhân ấy, nó trở nên thật khó hiểu. “Tôi có một ấn tượng” – đây là kết luận của Maugham – “rằng người đàn ông thật sự, đối với cái chết vô danh và cô độc của ông, là một hồn ma vô hình đi lại một cách lặng lẽ giữa vai trò là người viết những cuốn sách của ông ta và là người đàn ông đã trải qua cuộc đời của ông ta, và nở một nụ cười mỉa mai vô lo trước hai kẻ bị giật dây ấy…”

Bởi V.S. Naipaul | The New York Review of Books | April 23, 1987


Khám phá thêm từ Chuyện Đọc

Đăng ký để nhận các bài đăng mới nhất được gửi đến email của bạn.